Cố nhạc sĩ Anh Việt Thu - Tài hoa nhưng vắn số
Cố nhạc sĩ Anh Việt Thu - Tài hoa nhưng vắn số
Nhạc sĩ Anh Việt Thu (1939-1975) tên thật là Huỳnh Hữu Kim Sang, sinh năm 1939 tại Campuchia. Đến năm 1940 thì mới làm giấy khai sinh tại An Hữu, Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Bút danh Anh Việt Thu có nghĩa là “Anh của Việt Thu” vì em trai của anh có tên là Việt Thu.
Nhạc sĩ Anh Việt Thu sáng tác rất sớm. Từ năm 1956, anh đã có một số tác phẩm đầu tay như “Giòng An Giang”, “Đẹp Bạc Liêu”… Từ đó cho đến lúc qua đời, anh đã sáng tác khoảng hơn hai trăm bài hát.
Bạn bè nhận xét rằng Anh Việt Thu là một người ít nói, hiền lành, sống nhiệt tình và có tính nghệ sĩ. Lúc anh dạy nhạc ở Tây Ninh, tuy lương bổng rất khá nhưng do tính tình nghệ sĩ nên Anh Việt Thu vẫn cứ túng thiếu chuyện tiền bạc, có lúc đã phải bán radio để trả tiền thuê nhà.
Anh qua đời ngày 15 tháng 3 năm 1975 (nhằm ngày 3 tháng 2 năm Ất Mão) tại Y viện Quảng Đông, Sài Gòn (nay là bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Sài Gòn) do căn bệnh hoại thận. Anh được đưa về quê an táng tại làng An Hữu (nay là xã An Hữu, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang).
Niên khoá 1958-1959, Nhạc sĩ Anh Việt Thu là trưởng đoàn văn nghệ Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia.
Năm 1963, anh đệ trình luận án âm nhạc học tại nhạc viện Tokyo (Nhật Bản) và sau đó đỗ tốt nghiệp hạng ưu tại Trường Âm Nhạc Quốc Gia Sài Gòn khóa đầu tiên.
Năm 1964, anh về Tây Ninh dạy nhạc cho một trường phổ thông trung học (nay là trường THPT Trần Hưng Đạo).
Từ năm 1965 đến năm 1966, anh thành lập đoàn Du ca Phù Sa gồm có anh, Anh Việt Thanh, Hà Phương, Phạm Minh Cảnh, hát từ Cần Thơ ra đến Huế.
Từ năm 1966 – 1968, anh được Đài Truyền Hình Việt Nam mời về làm chương trình Phù Sa và Tuần Báo Văn Nghệ truyền thanh. Sang năm 1971, anh có riêng chương trình “Giờ Âm Nhạc Anh Việt Thu” trên Đài Truyền Hình Việt Nam.
Từ năm 1972 – 1974, nhạc sĩ Anh Việt Thu hợp tác với hãng “Đĩa Hát Việt Nam” thực hiện một số băng nhạc cổ vũ tín hiệu hoà bình từ Hiệp Định Paris (1973).
Thời gian cuối đời, anh làm việc tại Phòng Văn Nghệ Đài Phát Thanh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chung với NS Trần Thiện Thanh và NS Phạm Minh Cảnh.
Nhạc sĩ Anh Việt Thu. |
(Du Tử Lê – Wednesday, August 01, 2012 – 4:15:51 PM)
Trong số những nhạc sĩ sinh trưởng ở miền Nam, thuộc thế hệ (19)40, chẳng những thành danh sớm mà, từ giai điệu tới ca từ cũng mượt mà, giầu có, là cố nhạc sĩ Anh Việt Thu.
Ông là tác giả nhiều ca khúc nổi tiếng khi còn rất trẻ. Nhưng dường như định mệnh ngỗ ngược đã chỉ dành cho ông nửa miệng cười! Tôi muốn nói, cùng thời với ông, có những nhạc sĩ được dư luận, báo chí nhắc nhở tới như những tài hoa trẻ của nền tân nhạc Việt, dù số lượng sáng tác của họ được quần chúng biết đến ít hơn, hoặc giá trị thực hữu của những ca khúc đó là điều cần phải xét lại!
Trả lời câu hỏi điều gì dẫn tới sự bất công này? Một bằng hữu cùng giới với nhạc sĩ Anh Việt Thu cho rằng, vì ông mất quá sớm! Khi ông chưa bước tới tuổi 37 (theo cách tính phương Tây). (1)
Tôi không đồng ý lắm với lý giải này. Tuy nhạc sĩ Anh Việt Thu từ trần có phần sớm sủa hơn các bạn đồng nghiệp của ông – Nhưng chúng ta đừng quên, ngay tự năm 1956, ở tuổi 17, Anh Việt Thu đã nổi tiếng với ca khúc “Giòng An Giang”. Và, chỉ ít năm sau, khi vừa bước qua tuổi hai mươi, ông đã khiến không ít nhạc sĩ của miền Nam thời đó, phải nghiêng người, bất ngờ trước độ chín tới của tài hoa ông, qua ca khúc “Tám điệp khúc”. Ðể rồi sau đấy, hàng loạt sáng tác khác mang tên Anh Việt Thu, liên tiếp ra đời. Chúng ta có thể kể những ca khúc như “Chân dung,” “Ða tạ,” “Người ngoài phố,” “Hai vì sao lạc,” hay các bài “Nhớ nhau hoài,” “Gió về miền xuôi,” “Xa dấu ngựa hồng” phổ thơ Thiên Hà, v.v.
Nói cách khác, ngay tự những bậc thềm thứ nhất của 20 năm VHNT miền Nam, nhạc sĩ Anh Việt Thu đã có mặt, định hình như một tên tuổi đáng kể.
Lại nữa, khác hơn nhiều nhạc sĩ cùng trang lứa với mình, Anh Việt Thu được ghi nhận là một trong rất ít nhạc sĩ được đào luyện chính quy từ trường ốc. Theo tiểu sử được phổ biến gần đây, trên trang mạng Wikipedia/Bách khoa toàn thư mở thì, nhạc sĩ Anh Việt Thu, tên thật Huỳnh Hữu Kim Sang tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon (QGÂN). Cũng trong năm 1963, ông đã đệ trình luận án “Không có tiếng động trong âm nhạc” tại nhạc viện Tokyo. Ðồng thời ông cũng là chủ tịch Hội Sinh Viên trường QGÂN/Saigon. Cùng với nhà thơ Thiên Hà, Anh Việt Thu chủ trương chương trình Phù Sa, tuần báo Văn Nghệ Truyền Thanh cho đài phát thanh Saigon; và Giờ Âm Nhạc Anh Việt Thu trên đài truyền hình Việt Nam đầu thập niên (19)70…
Ðề cập tới hiện tượng “bất công” thường thấy trong VHNT, cố nhà văn Mai Thảo gọi đó là “cái duyên trong văn nghệ”. Nhiều người có thực tài nhưng bị lãng quên. Và, ngược lại. Tôi nghĩ nhạc sĩ Anh Việt Thu, ở trường hợp thứ nhất. Trường hợp “định mệnh ngỗ ngược chỉ dành cho ông nửa miệng cười!” Nhưng trường hợp nào thì, giá trị tự thân nhiều sáng tác của cố nhạc sĩ Anh Việt Thu, cũng vẫn là những hạt ngọc sẽ mãi còn lấp lánh trong kho tàng tân nhạc Việt.
Ðiển hình như ngay tự sáng tác đầu tay, ca khúc “Giòng An Giang,” Anh Việt Thu đã rất sớm cho thấy tính chất cá biệt trong sáng tác của mình.
Nhìn lại hơn nửa thế kỷ tân nhạc Việt, chúng ta có rất nhiều những ca khúc mang tên hoặc, nói về một dòng sông. Nhưng chúng ta không có bao nhiêu ca khúc được tác giả cho dòng nhạc của họ theo chân dòng sông, tới những nơi chốn dòng sông ấy đi qua, ở cùng. Như:
“Giòng An Giang sông sâu sóng biếc/Giòng An Giang cây xanh lá thắm “Lả lướt về qua Thất Sơn/Châu Ðốc giòng sông uốn quanh/soi bóng Tiền Giang Cửu Long…” (2)
Ngay đoạn mở đầu của “Giòng An Giang,” tác giả đã đem vào được ca khúc của mình 2 địa danh nổi tiếng của miền Nam là Thất Sơn, Châu Ðốc và, Tiền Giang (một trong chín nhánh sông của Cửu Long giang).
Nếu ca từ của ca khúc vừa kể, là thứ ngôn ngữ dung dị thích hợp với dòng chảy êm đềm, ngọt ngào của dòng An Giang thì, qua tới “Tám điệp khúc” ca từ lại được tác giả mặc cho chúng một chiếc áo khác. Chiếc áo có nhiều game màu lênh đênh những gập ghềnh vận mệnh đất nước:
“Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím dệt thành sầu/Bàn tay năm ngón mưa sa/Dìu anh trong tiếng thở/Ðưa tiễn anh đi vào đời/Mẹ Việt Nam ơi! Hai mươi năm ngăn lối rẽ đường về…” (3)
Cụm từ “Mẹ Việt Nam” khá phổ biến trong nhiều ca khúc nói về tình yêu quê hương. Nhưng, theo tôi, có lẽ giai điệu và ca từ “Tám điệp khúc” của Anh Việt Thu tha thiết, chân thành nhất, khiến người nghe dễ đồng cảm với tác giả. Nó không có tính cách kêu gào, thét gọi khiến “Mẹ Việt Nam” (nếu nghe được) tôi sợ, đôi khi cũng phải… giật mình!?
Cũng trong ca khúc “Tám điệp khúc”, dù được Anh Việt Thu viết cách đây đã trên dưới nửa thế kỷ, nhưng khi ông dùng tính từ “thiêng” để rọi sáng nghĩa ngữ cho danh từ “sóng”, trong câu “Ôi sóng thiêng em về trời”
– Rồi tính từ ấy đã được lại nhiều lần ở đoạn kết:
“…Rừng thiêng lá đổ âm u/Rừng thiêng vang tiếng gọi/Ôi núi thiêng em về nguồn/Mẹ Việt Nam ơi! Con xin ghi xin khắc nguyện lời thề” – Thì ngay hiện tại, tôi e cũng khó có một nhạc sĩ trẻ tuổi nào, có được!
Song song với việc sáng tác nhạc, đầu thập niên (19)70, nhạc sĩ Anh Việt Thu còn hợp tác với một người bạn có nhà in là nhà thơ Nguyễn Vương, thành lập nhà xuất bản Ngạn Ngữ. Mục đích của nhà Ngạn Ngữ không phải để in nhạc của Anh Việt Thu. Ông chủ trương in truyện, thơ của một số tác giả quen thuộc.
Tôi không biết tính tới ngày từ trần, tác giả “Tám điệp khúc” đã xuất bản được bao nhiêu tác phẩm. Chỉ biết, một trong những cuốn sách cuối cùng mang tên nhà Ngạn Ngữ là truyện dài “Với nhau, một ngày nào” của Du Tử Lê, phát hành tháng 11 năm 1974.
Bìa sách của nhà xuất bản Ngạn Ngữ. |
Tôi muốn nhấn mạnh khi làm xuất bản, nhạc sĩ Anh Việt Thu không chỉ trả hết tiền tác quyền một lần cho tác giả mà, ông còn cho tác giả được chọn họa sĩ trình bày bìa, cũng như thỏa mãn mọi đòi hỏi khác của tác giả, nếu có. (4)
Sự kiện này cho thấy, nhạc sĩ Anh Việt Thu không chỉ là một nhạc sĩ tài hoa; ông còn là người có một nhân cách đáng quý trọng trong đời thường nữa.
(Du Tử Lê – Calif. tháng 8 – 2012).
Nhận xét
Đăng nhận xét